Chú thích Trần Thanh Phong

  1. Bốn lần phục vụ tại Bộ Tổng Tham mưu. Lần thứ nhất giữ chức vụ Thiếu tá Phó Phòng 2 (1956), lần thứ hai chức vụ Chuẩn tướng Trưởng phòng 3 (1965), lần thứ ba chức vụ Thiếu tướng Tham mưu trưởng Liên quân (1967), lần thứ tư chức vụ Thiếu tướng Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1969).
  2. Tiền thân của Quân đoàn IV và Quân khu 4 sau này, cũng đặt binh sở tại Cần Thơ.
  3. Trường Võ bị Quốc gia được thành lập nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt, trước tiên phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp, sau nữa phục vụ cho Quân đội Quốc gia. Ban đầu trường Võ bị đặt cơ sở tại khu Đập Đá, hữu ngạn sông Hương, Thành phố Huế. Từ năm 1948-1950 đào tạo được 2 khóa sĩ quan hiện dịch (tốt nghiệp được mang cấp bậc Thiếu úy), gồm khóa 1 Phan Bội Châu và khóa 2 Quang Trung. Tháng 7 năm 1950, sau khi tổ chức lễ tốt nghiệp cho khóa 2 Quang Trung, trường di chuyển về Đà Lạt đặt tại địa điểm trước đó là cơ sở của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của Quân đội Thuộc địa Pháp và đổi tên thành trường Võ bị Liên quân Đà lạt, đào tạo tiếp khóa sĩ quan đầu tiên tại đây lấy tên là khóa 3 Trần Hưng Đạo.
    Vị trí của trường ở Huế tiếp tục là cơ sở đào tạo sĩ quan người Việt nhưng đổi tên thành trường Võ bị Địa phương Trung Việt (thường gọi là trường Sĩ quan Đập Đá-Huế). Từ năm 1950-1952, đào tạo thêm được 3 khóa nữa. Tuy nhiên, sĩ quan tốt nghiệp chỉ được mang cấp bậc Chuẩn úy. Trong 3 khóa này về sau có ba người được phong cấp tướng là Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp khóa 1 (1950-1951), Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ khóa 2 (1951) và Thiếu tướng Võ Văn Cảnh khóa 3 (1951-1952).
  4. Tốt nghiệp khóa 2 Quang Trung, sau này lên tướng còn có các Trung tướng Ngô DzuNguyễn Văn Mạnh, các Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Hoàng Văn Lạc, Nguyễn Thanh SằngLê Ngọc Triển, các Chuẩn tướng Nguyễn Thanh HoàngLê Trung Tường.
  5. Đệ ngũ Quân khu là lãnh thổ Miền tây Nam phần, về sau đổi thành Vùng 4 chiến thuật, rồi Quân khu 4. Trong địa bàn Quân khu có Quân đoàn IV cùng các đơn vị trực thuộc trách nhiệm về mặt quân sự
  6. Đại tá Lê Quang Trọng sinh năm 1925 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Quốc gia tại Huế.
  7. Trước khi rời Ban Mê Thuột để bay về Phú Yên, đoàn thanh sát do tướng Trần Thanh Phong làm Trưởng đoàn, đã được Trung tá Tỉnh trưởng Phú Yên Nguyễn Văn Tố (sinh năm 1930 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Địa phương Trung Việt - Trường Sĩ quan Đập Đá, Huế) gọi điện thoại báo tình hình thời tiết ở vùng trời Tuy Hòa (Tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) rất xấu, đồng thời đề nghị phi cơ chở phái đoàn nên đáp xuống Phi trường Đông Tác trong căn cứ Không quân Hoa Kỳ, nằm trên bờ biển cách Thị xã Tuy Hòa 5km về hướng nam. Tuy nhiên, khi về đến không phận Tuy Hòa, phi công chiếc Caribou C-7A lại muốn đáp xuống phi trường Chóp Chài nằm song song với Quốc lộ 1 với đường băng lót bằng vỉ sắt, cách Tuy Hòa 2 km về hướng Bắc. Nhưng máy bay đã gặp nạn trước khi kịp đáp xuống đường băng.
  8. Cùng tử nạn trên chiếc phi cơ Caribou còn có:
    - Thiếu tá Lê Văn Ba (sinh năm 1929 tại Sài Gòn, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt). Được truy thăng Trung tá.
    - Đại úy Nguyễn Thu Giang (sinh năm 1934 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 10B Trừ bị Đà Lạt (tức khóa 4 phụ Sĩ quan trừ bị Thủ Đức gửi lên học ở trường Võ bị Đà Lạt). Được truy thăng Thiếu tá.
    Ngoài ra còn có 3 viên cố vấn Mỹ và 2 Trung úy phi công.